Đúng vậy, Hứa Minh Nguyệt phát hiện ra một điều: Không chỉ cô và bé A Cẩm
xuyên không, mà chiếc xe chở đầy vật tư của cô cũng xuyên theo cùng!
Lúc cãi nhau hăng máu thì không cảm thấy gì, nhưng đến khi đưa A Cẩm về
nhà Vương Căn Sinh lấy của hồi môn (là một chiếc rương gỗ) và thay quần áo
ướt, cô mới thấy đói hoa mắt chóng mặt.
Bữa sáng mua cho A Cẩm là bánh bao và xíu mại vẫn chưa ăn hết. Hai mẹ con
mỗi người ăn vội một cái xíu mại mới lại sức. Không phải cô không muốn ăn
bánh bao thịt, mà là bánh bao thịt mùi rất nồng, vừa ngửi là người ta đoán ra
ngay, ăn vào lúc này không tiện.
Ăn xong cái xíu mại, bé A Cẩm vốn kén ăn thế mà lại chủ động kêu đói. Nhưng
trước mặt bao người, cô không thể lấy đồ ăn từ trong xe ra được, đành dỗ dành
con là về nhà cậu sẽ có cái ăn.
Trên đường về thôn Hứa Gia, bác cả Hứa còn phải dẫn người ra bãi sông đắp
đê nên đi được nửa đường thì tách ra. Chỉ còn Hứa Phượng Đài (ông thời thanh
niên) đưa Hứa Minh Nguyệt về nhà.
Về đến thôn Hứa Gia, nhìn thấy căn nhà tranh vách đất của “nhà mẹ đẻ”, Hứa
Minh Nguyệt không khỏi chấn động.
Căn nhà mà ông ở thời trẻ này, chẳng khác gì cái chuồng heo hay nhà kho
chứa củi ở quê cô hồi bé!
Căn nhà này nhỏ đến mức nào? Vỏn vẹn khoảng hơn ba mươi mét vuông, bao
gồm cả bếp lò đất, bồ đựng thóc và chỗ ngủ cho cả gia đình. Trước đây nhà có
bốn người, giờ thêm mẹ con Hứa Minh Nguyệt nữa là sáu miệng ăn chen chúc.
Hồi nhỏ còn đỡ, cả nhà ngủ chung trên một cái giường lớn. Giờ Hứa Phượng
Đài và các em đã lớn, nam nữ thụ thụ bất thân, phải chia giường ra ngủ. Trong
nhà ngăn một tấm mành cỏ, bà cố (mẹ của Phượng Đài) và Hứa Phượng Liên
ngủ trên giường tre phía trong tấm mành. Hứa Phượng Đài và em út Hứa
Phượng Phát ngủ giường gỗ bên ngoài.
Sau này vào hợp tác xã, lương thực bị thu đi hết, bồ đựng thóc trống rỗng. Cái
bồ rộng chừng 1 mét 2 ấy trở thành chỗ ngủ buổi tối cho bà cố và Hứa Phượng
Liên.
Cũng phải thôi, Hứa Phượng Liên đã lớn, buổi tối sinh hoạt cá nhân chung
đụng với anh em trai trong một không gian chật hẹp như vậy rất bất tiện.
Chẳng trách bà cô cả sau khi bị ly hôn lại tuyệt vọng ôm con nhảy sông. Phụ
nữ ly hôn, dù nhà mẹ đẻ có thương tình thu nhận thì dòng tộc cũng không
muốn chứa, sợ ảnh hưởng đến việc cưới xin của các cô gái khác trong họ, sợ
mang tiếng xấu. Hơn nữa, dù anh trai có muốn cưu mang thì nhà cũng chẳng
có chỗ mà chui ra chui vào.
Quá chật chội! Hứa Minh Nguyệt cảm thấy đúng là đến chỗ xoay người cũng
không có.
Hứa Phượng Đài đặt chiếc rương gỗ lên bàn, nói với Hứa Minh Nguyệt: “Tối nay
em ngủ ở đây. Anh dẫn thằng Tư (Phượng Phát) ra lều ngoài bờ sông ngủ, tiện
thể đi đắp đê luôn”
Trên bờ đê có dựng lều tranh để trông coi công cụ. Thường thì trừ người được
Đại đội trưởng chỉ định, chẳng ai muốn ngủ ngoài đó. Thứ nhất là hơi nước
nặng, mùa thu sương xuống lạnh buốt; thứ hai là tối lửa tắt đèn, nếu có trộm
cắp xảy ra xô xát thì rất nguy hiểm.
Nhưng Hứa Phượng Đài chủ động ra đó trông coi thì tốt quá, giải quyết được
vấn đề chỗ ngủ.
Hứa Minh Nguyệt vội gọi giật ông lại: “Anh cả, lát nữa ra bãi sông, anh hỏi giúp
em xem Đại đội trưởng có thể cấp cho em một mảnh đất nền ở khu Núi Hoang
được không? Em muốn dựng cái nhà nhỏ ở đó”
Hứa Phượng Đài muốn em gái ở nhà cho vui vầy, nhưng nhà đúng là chật ních.
Hơn nữa chuyện em gái ly hôn được chia tiền chắc chắn sẽ sớm lan ra, tiền
cầm trong tay dễ bị người ta nhòm ngó, thà rằng bỏ ra dựng cái nhà riêng còn
hơn.
Anh ngập ngừng: “Khu Núi Hoang hẻo lánh quá, không an toàn đâu. Để anh xin
bác cả xem có cấp được miếng đất nào trong thôn không, kể cả ở cuối thôn
cũng được, còn hơn ra đấy”
Núi Hoang là vùng đất nằm giữa thôn Hứa Gia và thôn Giang Gia. Gọi là núi
nhưng thực ra chỉ là vùng đất cao hơn ruộng đồng xung quanh, nối liền với
chân núi, trên đó có khá nhiều mồ mả, hoang vu lạnh lẽo. Đừng nói buổi tối,
ban ngày cũng ít người dám bén mảng tới.
Nhưng Hứa Minh Nguyệt lại không muốn sống chung đụng với người trong
thôn, cô kiên quyết: “Anh cứ hỏi giúp em khu Núi Hoang đi, tốn chút tiền cũng
được. Đất trong thôn sợ xin cũng không cho đâu. Núi Hoang cũng gần thôn
mình mà, anh em còn tiện chạy qua chạy lại. Nếu không được ở đấy thì em
thực sự chẳng còn chỗ nào để đi nữa”
Hứa Minh Nguyệt nháy mắt, ghé sát tai Hứa Phượng Đài thì thầm: “Anh cả, thế
này đi, tối nay đợi vắng người, chúng ta xách hai gói quà, anh lén đưa sang
nhà Đại đội trưởng”
Đừng nói phụ nữ ly hôn, ngay cả những gia đình bắt rể cũng khó mà xin cấp
đất nền. Cách giải quyết thường thấy nhất của làng xã là: tìm một người đàn
ông khác gả quách cô ta đi cho xong!
Hứa Minh Nguyệt vất vả lắm mới thoát được kiếp làm vợ, đời nào chịu tìm
người khác để bị bóc lột hợp pháp tiếp? Ai cũng biết cô đang cầm một đống
tiền, thay vì để người ta rình mò trộm c·ướp, chi bằng chủ động bỏ ra một ít để
lo liệu việc lớn.
Thư Sách
Hứa Phượng Đài gật đầu. Có lẽ đang vội đi làm, anh đặt cái rương xuống, múc
gáo nước lã trong lu uống ừng ực rồi chạy biến đi.
Hứa Minh Nguyệt nhìn theo bóng lưng gầy gò như cây sậy của ông , vội vàng
mở nắp rương, làm bộ như lấy từ trong rương ra (thực chất là lấy từ không gian
xe) hai cái bánh bao thịt, chạy theo đưa cho anh: “Anh cả, đây là bánh bao thịt
Vương Căn Sinh mang về từ sáng, em cầm về đấy, anh mau ăn lót dạ đi”
Hứa Phượng Đài đặt hai cái bánh bao lên bàn rồi đi thẳng: “Anh không đói, em
với cái A Cẩm ăn đi!”
Anh cao kều, sải chân dài, Hứa Minh Nguyệt đuổi không kịp.
Trong nhà không còn ai. Bà cố, bà trẻ Phượng Liên và ông trẻ Phượng Phát
chắc đều đang đi làm.
Hứa Phượng Đài đi rồi, Hứa Minh Nguyệt vội đưa hai cái bánh bao cho A Cẩm,
bảo con ngồi một góc ăn, còn mình thì mở toang chiếc rương gỗ ra.
Chiếc rương trống huơ trống hoác, bên trong chỉ có một bộ quần áo vá chằng
vá đụp và một cái quần rách của A Cẩm.
Cô tranh thủ lúc vắng người, lôi từ trong “xe” ra một cái chăn bông nhét vào
rương. Bây giờ đã là cuối thu, thôn Hứa Gia tựa núi nhìn sông nên ban đêm rất
lạnh và ẩm, không có chăn ấm thì không chịu nổi. Chiếc chăn bông này cô
mua loại 5 cân, không quá dày, vốn định dùng cho việc tang lễ. Tiếp đó là hai
bộ vỏ chăn ga gối, cô đã xé bỏ hết bao bì các tông, chỉ để lại ruột. Rồi đến hai
bộ quần áo tắm cho A Cẩm, hai bộ đồ lót nỉ giữ nhiệt cho cô, khăn mặt, vv.
Dù sao Vương Căn Sinh cũng làm ở nhà máy dệt, cứ bảo là hắn mang từ trong
xưởng về, ai mà đi kiểm chứng được?
Cô lấy thêm hai cái chậu tráng men. Ở nông thôn việc vệ sinh cá nhân rất bất
tiện, nhất là với phụ nữ. Lúc mua đồ cô đã tính xa, sợ quê nhà lâu không có
người ở, bình nóng lạnh hỏng hóc nên mua dự phòng hai cái chậu, không ngờ
lại dùng đến ở tận đây.
vat-tu-nuoi-gia-dinh-o-thap-nien-60/chuong-7-cu-tat-thu-bay-bi-mat-trong-
chiec-ruong-gohtml]
Nhét chậu vào xong thì rương không đóng nổi nắp. Hứa Minh Nguyệt lại phải
sắp xếp lại: gấp gọn chăn ga để một bên, chậu để một bên, nhét khăn mặt
quần áo vào các khe hở hoặc lòng chậu. Nghĩ ngợi một chút, cô lấy thêm một
thùng mì sợi nhét vào.
Còn chuyện tại sao bê cái rương nhẹ tênh về mà mở ra lại đầy ắp đồ, đến lúc
đó cô sẽ bịa lý do sau.
Hứa Minh Nguyệt nhét đến khi cái rương chật ních mới chịu thôi.
Bé A Cẩm ngồi gặm bánh bao, nhìn thấy cảnh đó bỗng hỏi: “Mẹ ơi, mẹ biết làm
ảo thuật ạ?”
Hứa Minh Nguyệt mải xếp đồ quên mất con gái, nghe vậy bèn ngồi xuống
nghiêm túc dặn dò: “Con yêu à, chuyện mẹ biết làm ảo thuật tuyệt đối không
được nói cho bất kỳ ai nhé, nếu không người xấu sẽ bắt mẹ đi đấy, con hiểu
không?”
A Cẩm vội lấy tay bịt miệng, gật đầu lia lịa: “Con biết rồi! Đây là bí mật!”
“Đúng rồi, là bí mật của hai mẹ con mình!”
Loay hoay một hồi thì trời đã sẩm tối. Hứa Minh Nguyệt đoán nhóm người bà
cố, bà trẻ sắp về.
Quả nhiên, nhóm Hứa Phượng Liên cũng đang trên đường về.
Lao động chính trong thôn thì đi đắp đê, còn phụ nữ, người già, trẻ em thì lên
núi đốn củi, nhặt hạt dẻ gai để chuẩn bị cho mùa đông.
Ngày đã ngắn dần, mới hơn bốn giờ chiều trời đã bắt đầu tối. Người đi rừng sợ
nguy hiểm nên vội vã bó củi, gánh xuống núi. Quan trọng hơn là thời này ăn
cơm tập thể (bếp ăn hợp tác xã), nhà ăn mở cửa đúng giờ, ai về chậm thì chỉ
còn nước rửa bát, nên ai nấy đều tranh nhau xuống núi.
Hứa Phượng Liên mới mười lăm tuổi, gánh một gánh cỏ tranh, miệng nhai rễ
cỏ cho đỡ đói, đôi chân bước thoăn thoắt. Cô sợ về chậm thì đồ ăn ở nhà ăn bị
người ta tranh hết mất.
Đi sau cô là cậu em Hứa Phượng Phát mười hai tuổi, cũng gánh một gánh lá
thông, và cuối cùng là một bà lão chân nhỏ cõng chiếc sọt tre đựng đầy hạt
dẻ, bước đi tập tễnh nhưng cũng rất nhanh.
Hứa Phượng Liên vội đi ăn cơm, về đến cửa nhà, cô quẳng gánh cỏ ra sau nhà
rồi ba chân bốn cẳng chạy vụt tới nhà ăn.
Có chị gái đi trước xí chỗ, Hứa Phượng Phát thong dong hơn, cậu xếp gọn gánh
cỏ của chị và gánh lá thông của mình vào đống rơm.
Hứa Minh Nguyệt nghe tiếng động liền đi ra. Hứa Phượng Phát nhìn thấy cô thì
ngạc nhiên: “Chị cả về rồi à?”
Vì đang ăn cơm tập thể, mỗi hộ đều dựa vào khẩu phần lương thực để ăn tại
nhà ăn của thôn mình. Hứa Phượng Phát ngạc nhiên vì giờ này đáng lẽ Hứa
Minh Nguyệt phải đang ăn cơm bên đại đội Thạch Giản (nhà chồng) mới đúng.
Nhưng cậu nhóc cũng chẳng nghĩ nhiều, nói vọng vào: “Chị cả, em đi nhà ăn
lấy cơm trước đây!”
Đang tuổi ăn tuổi lớn, làm việc quần quật cả ngày nên cậu đói đến mức bụng
dán vào lưng, trời đất bao la không bằng bát cơm, lỡ bữa là coi như nhịn đói.
Cuối cùng bà lão chân nhỏ mới về đến nơi. Gọi là bà lão chứ thực ra bà mới
hơn 40 tuổi, nhưng sự khắc khổ của cuộc sống khiến bà trông như người 50-60
tuổi.
Hứa Minh Nguyệt nhìn thấy bà liền nhận ra ngay đây là mẹ ruột của nguyên
thân (bà cố của cô). Cô vội chạy ra đỡ chiếc sọt tre trên lưng bà xuống. Trong
sọt toàn vỏ hạt dẻ gai, cũng không quá nặng.
Đặt sọt xuống, bà lão thở hồng hộc, ngạc nhiên hỏi: “Lan Tử, sao giờ này con
lại về? Cãi nhau với con rể hả?”
Ở vùng này người ta gọi con rể là “đại quái” (cô gia), nghe hơi lạ tai.
Hứa Minh Nguyệt không muốn kể chuyện lúc này làm ảnh hưởng đến bữa ăn
của bà, bèn giục: “Mẹ, mau ra nhà ăn ăn cơm đi, muộn là hết cơm đấy”
Bà cố sực nhớ ra chuyện cơm nước quan trọng, thấy con gái và cháu ngoại về
bất ngờ, bà vội vào lấy thêm cái bát rồi tất tả chạy ra nhà ăn.
Tối nay Hứa Phượng Đài trực đêm ngoài bờ sông, cơm do Phượng Phát mang
ra. Đưa cơm xong, Phượng Phát ngủ lại lều tranh với anh, còn Phượng Đài
tranh thủ chạy về nhà để lo việc Minh Nguyệt nhờ vả: đi biếu quà cho Đại đội
trưởng để xin cấp đất làm nhà.
Hứa Phượng Liên và bà Hứa (mẹ) còn đang chen chúc lấy cơm thì nghe người
đi làm đê về hỏi: “Bà Hứa này, nghe nói con Lan Tử nhà bà ly hôn rồi à, có thật
không?”
Bà Hứa tính tình nhu mì, nghe xong thì ngớ người ra. Nhưng Hứa Phượng Liên
thì đanh đá, nghe vậy liền gắt lên: “Bà mới ly hôn ấy!”
“Tôi nghe chính người chi ba nhà các người nói đấy nhé. Hôm nay con Đại Lan
Tử nhảy sông t·ự t·ử, cả chi ba nhà các người kéo sang bên đó, chẳng lẽ là
giả?”
Bà Hứa và Hứa Phượng Liên bán tín bán nghi.
Vốn dĩ Hứa Minh Nguyệt tưởng chuyện cô ly hôn và được chia một ngàn đồng
sẽ gây chấn động làng xóm, nhưng không ngờ tin tức lan nhanh đến thế.
Thực ra những người ở lại giải quyết sự việc bên thôn Vương Gia, ngoài Đại đội
trưởng ra thì chỉ có mấy ông anh họ. Dù có người nảy lòng tham muốn vay
mượn tiền của cô, họ cũng sẽ tính kế lén lút chứ không dại gì mà rêu rao cho
cả thiên hạ biết cô có tiền. Hứa Phượng Đài là anh ruột lại càng kín miệng.
Đại đội trưởng có nói thì cũng chỉ nói với vợ con ở nhà, chứ không rảnh mà
buôn chuyện ngay ngoài bãi sông.
Thế nhưng, những người về trước đã lan truyền chuyện Vương Căn Sinh đòi bỏ
vợ, khiến tin tức này ai ai cũng biết.
Ở cái làng nhỏ bé này, đây là tin tức động trời.
Phụ nữ bị chồng ruồng bỏ thì họ thấy nhiều, nhưng phụ nữ chính thức “ly hôn”
thì đây là lần đầu tiên họ nghe thấy.